THỂ CHẾ DUNG HỢP – NHỮNG GỢI Ý ĐỂ KIỆN TOÀN NHÀ NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
ThS. Đào Thu Hà
Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt: Thể chế dung hợp (inclusive institutions) được Daron Acemoglu và James Robinson cho là lý do chủ yếu của sự thành công về kinh tế ở các quốc gia phát triển, nó cũng là yếu tố cơ bản để duy trì sự thịnh vượng của các quốc gia này. Trong lý thuyết của mình, các học giả này đã xác định thể chế dung hợp là thể chế cho phép và khuyến khích sự tham gia của đại đa số dân chúng vào các hoạt động quản trị nhà nước và hoạt động kinh tế nhằm sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ của họ, ngược lại thể chế này cũng giúp các cá nhân thực hiện những mong muốn của bản thân mình. Một số nghiên cứu của các học giả khác cũng góp phần xác thực lý thuyết về thể chế dung hợp của Daron Acemoglu và James Robinson. Chính sự tương đồng của lý thuyết về thể chế dung hợp với mục tiêu phát triển mà Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hướng tới đã thôi thúc việc nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết thể chế dung hợp trong bài viết này, để tìm ra những gợi ý cho quá trình kiện toàn nhà nước và pháp luật ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Bài viết sẽ trình bày các vấn đề cơ bản về lý thuyết thể chế dung hợp; các quan điểm mâu thuẫn, đối lập với lý thuyết này; từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện nhà nước và pháp luật nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam.
Từ khoá: đổi mới công nghệ, tăng trưởng kinh tế, thể chế dung hợp, thể chế chiếm đoạt, kiện toàn Nhà nước, hoàn thiện pháp luật
- Khái quát về lý thuyết thể chế dung hợp của Daron Acemoglu và James
Robinson
Dựa trên những hiểu biết sâu sắc về lịch sử của nhiều vùng đất và dân tộc, Daron Acemoglu và James Robinson đã xây dựng nên lý thuyết thể chế dung hợp (inclusive institutions), lý thuyết này đã đem lại lời giải thích thuyết phục đối với câu hỏi về sự thành công hay thất bại của các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trƣớc Acemoglu và Robinson, nhiều nhà khoa học cũng đã đề xuất các giả thuyết khác nhau để trả lời cho câu hỏi trên nhƣ giả thuyết địa lý, giả thuyết văn hoá và giả thuyết vô minh, tuy nhiên Acemoglu và Robinson đã dùng các bằng chứng lịch sử để lần lƣợt bác bỏ các giả thuyết này và sau đó đề xuất lý thuyết thể chế dung hợp, đồng thời chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết này trong việc giải thích lý do của sự thịnh vƣợng hay nghèo đói ở các quốc gia trên thế giới. Lý thuyết thể chế dung hợp đã đƣợc hai nhà nghiên cứu nói trên trình bày tập trung trong tác phẩm Tại sao các quốc gia thất bại (Why nations fail) xuất bản năm 2012.
Theo Acemoglu và Robinson, thể chế dung hợp là thể chế cho phép và khuyến khích sự tham gia của đại đa số dân chúng vào các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, từ đó có thể sử dụng tốt nhất tài năng và trình độ của mọi cá nhân cho sự phát triển xã hội, đồng thời cũng giúp mỗi cá nhân thực hiện những điều bản thân họ mong muốn. Đối lập với thể chế dung hợp là thể chế chiếm đoạt (extractive institutions), đó là thể chế mà một bộ phận dân chúng đƣợc tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực của xã hội, thể chế đó cho phép một bộ phận dân chúng này chiếm đoạt thu nhập và của cải từ một bộ phận dân chúng khác để làm lợi cho mình. Các tác giả Acemoglu và Robinson đã giải thích rằng thể chế xã hội bao gồm hai yếu tố là thể chế chính trị và thể chế kinh tế, mặc dù giữa chúng có sự hoà hợp, gắn kết với nhau, nhƣng thể chế chính trị lại là yếu tố then chốt, quyết định tính chất của thể chế kinh tế. Theo nghĩa này, một thể chế dung hợp sẽ đƣợc tạo thành bởi thể chế chính trị dung hợp và thể chế kinh tế dung hợp. Trong đó, hai tác giả đã khẳng định thể chế chính trị dung hợp là thể chế chính trị vừa có tính đa nguyên và vừa có tính tập trung1. Thể chế chính trị có tính chất đa nguyên là thể chế mà quyền lực chính trị sẽ đƣợc phân phối rộng rãi trong xã hội và những ngƣời nắm quyền cũng bị hạn chế sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện. Nhƣng chỉ một mình tính đa nguyên sẽ không giúp thể chế chính trị trở nên dung hợp, vì xã hội đa nguyên nhƣng thiếu một nhà nƣớc có thể kiểm soát hay có thể đảm bảo khả năng thực thi luật pháp và trật tự thì đa nguyên sẽ dẫn đến sự hỗn loạn và chia rẽ. Ngƣợc lại, tập trung chính trị mà thiếu đa nguyên thì quyền lực chính trị sẽ rơi vào tay một nhóm thiểu số quyền thế và chẳng có gì giới hạn quyền lực của họ, khi đó thiểu số quyền thế sẽ luôn tạo ra những cơ chế kinh tế sao cho họ có thể tƣớc đoạt các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội, đó chính là đặc trƣng của thể chế chiếm đoạt. Nhƣ vậy, thể chế chính trị dung hợp là thể chế có một nhà nƣớc đủ mạnh và đủ tập trung để cƣỡng chế thực thi luật pháp và trật tự, nhƣng nhà nƣớc đó phải tạo lập, duy trì và bảo vệ cơ chế chính trị có tính đa nguyên, đảm bảo quyền lực chính trị đƣợc phân phối rộng rãi cho các thành viên trong xã hội. Khi thể chế chính trị là dung hợp, quyền lực chính trị đƣợc phân phối cho nhiều nhóm, nhiều chủ thể khác nhau nên không ai có thể sử dụng quyền lực một cách tuỳ tiện để chiếm đoạt tài sản và thu nhập của ngƣời khác nhằm làm lợi riêng cho mình, nói cách khác thể chế chính trị đa nguyên nhƣ thế sẽ giúp tạo ra những cơ chế đảm bảo quyền sở hữu tài sản và cơ hội kinh tế cho đông đảo quần chúng trong xã hội, và nhờ đó nền kinh tế trở nên tự do hơn, thị trƣờng trở nên cạnh tranh công bằng hơn, đó chính là đặc trƣng của thể chế kinh tế dung hợp. Tóm lại, thể chế chính trị dung hợp sẽ sản sinh ra thể chế kinh tế dung hợp, đến lƣợt mình, thể chế kinh tế dung hợp lại đảm bảo cho sự bền vững của thể chế chính trị dung hợp, bởi thể chế kinh tế dung hợp làm cho “sự phân phối nguồn
1 Xem Acemoglu và Robinson (2012), tr. 116.
lực xã hội công bằng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của các thể chế chính trị dung hợp”1.
Tƣơng tự những điều trên, Acemoglu và Robinson cũng đƣa ra các lập luận và bằng chứng cho các lập luận của họ về mối quan hệ hoà hợp giữa thể chế chính trị chiếm đoạt và thể chế kinh tế chiếm đoạt, theo họ thì đó là mối quan hệ kiểu hỗ trợ lẫn nhau và có xu hƣớng tồn tại dai dẳng, thể chế chính trị chiếm đoạt sinh ra thể chế kinh tế chiếm đoạt và đến lƣợt mình, thể chế kinh tế chiếm đoạt lại giúp củng cố và bảo vệ thể chế chính trị chiếm đoạt. Các tác giả này cũng chỉ ra những bằng chứng về sự kết hợp giữa thể chế chính trị chiếm đoạt với thể chế kinh tế dung hợp, cũng nhƣ sự kết hợp giữa thể chế chính trị dung hợp với thể chế kinh tế chiếm đoạt là không ổn định. Thể chế kinh tế chiếm đoạt sẽ không thể tồn tại lâu dài trong các thể chế chính trị dung hợp, nó sẽ bị biến đổi và cuối cùng trở thành thể chế kinh tế dung hợp. Còn thể chế kinh tế dung hợp không đƣợc hỗ trợ bởi các thể chế chính trị chiếm đoạt, cũng nhƣ không hỗ trợ thể chế chính trị này, đo đó hoặc là nó sẽ chuyển biến thành thể chế kinh tế chiếm đoạt, hoặc là nó sẽ tạo ra động lực làm biến đổi thể chế chính trị chiếm đoạt thành thể chế chính trị dung hợp.
|
|
|
Nhìn chung, hai tác giả Acemoglu và Robinson đã đánh giá rằng các thể chế chính trị và kinh tế dung hợp hay chiếm đoạt đều là kết quả sự lựa chọn của xã hội, nhƣng luôn có một điều chắc chắn là các thể chế chính trị giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra một hệ thống thể chế kinh tế tƣơng ứng với nó, cụ thể là thể chế kinh tế dung hợp nảy sinh từ thể chế chính trị dung hợp và thể chế chính trị chiếm đoạt tất yếu sinh ra thể chế kinh tế chiếm đoạt. Đến lƣợt mình, thể chế kinh tế lại có mối quan hệ mật thiết với kết quả phát triển kinh tế - xã hội. Về điều này, Acemoglu và Robinson đã khẳng định thể chế kinh tế dung hợp khuyến khích sự tăng trƣởng kinh tế bền vững, bởi vì trong thể chế kinh tế dung hợp, các thị trƣờng có tính cạnh tranh công bằng và luật chơi bình đẳng đƣợc đảm bảo đã khuyến khích các phát minh đổi mới công nghệ ra đời và đƣợc áp dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Sự phát triển công nghệ và áp dụng công nghệ để đổi mới các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cho phép cách thức sản xuất mới tốt hơn thay thế, loại bỏ cách thức sản xuất cũ lạc hậu nhƣ vậy đƣợc nhà kinh tế chính trị Joseph Schumpeter (1942) gọi là “sự phá huỷ sáng tạo”, Acemoglu và Robinson đã đồng ý với quan điểm của Schumpeter khi cho rằng sự phá huỷ sáng tạo là nguồn gốc của sự phát triển và cải thiện mức sống xã hội liên tục. Nói cách khác, theo Acemoglu và Robinson, thể chế kinh tế dung hợp tạo ra sự tăng trƣởng bền vững bởi nó thúc đẩy sự phá huỷ sáng tạo, trong khi đó, thể chế kinh tế chiếm đoạt không thúc đẩy sự phá huỷ sáng tạo, nên thể chế này hoặc là không thể tạo ra sự tăng trƣởng, hoặc là có khả năng tạo ra sự tăng trƣởng nhƣng không bền vững, chỉ kéo dài
1 Xem Acemoglu và Robinson (2012), tr. 118
trong một thời gian nhất định nhờ sự sắp xếp, phân bổ lại nguồn lực từ lĩnh vực (nông nghiệp) kém hiệu quả sang lĩnh vực (công nghiệp) có giá trị cao hơn1.
Tóm lại, lý thuyết thể chế dung hợp của Acemoglu và Robinson cho thấy trọng tâm của vấn đề tăng trƣởng và phát triển kinh tế - xã hội là sự lựa chọn thể chế, nếu thể chế có tính dung hợp sẽ thúc đẩy, khuyến khích tăng trƣởng kinh tế, ngƣợc lại nếu thể chế là chiếm đoạt sẽ cản trở và ngăn chặn tăng trƣởng kinh tế. Acemoglu và Robinson nhấn mạnh rằng thể chế chính trị và kinh tế của một quốc gia là do sự lựa chọn của xã hội đó quyết định, không có lý do gì để các thể chế chính trị tự động trở thành dung hợp hay đƣơng nhiên là chiếm đoạt. Lý thuyết thể chế dung hợp cũng chỉ ra rằng có mối quan hệ hài hoà và hỗ trợ, thúc đẩy nhau giữa thể chế chính trị với thể chế kinh tế, trong đó thể chế chính trị có vai trò quyết định tính chất của thể chế kinh tế. Mặc dù lý thuyết thể chế dung hợp đƣợc xây dựng nhằm giải thích cho sự thành công hay thất bại trong phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới, nhƣng nó cũng hàm ý rằng các quốc gia có thể chọn lựa thành công hay thất bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội bằng việc lựa chọn xây dựng các thể chế chính trị và thể chế kinh tế.
- Thể chế dung hợp – cách thức tạo ra tăng trưởng kinh tế
Vì các yếu tố cơ bản của nền sản xuất bao gồm lao động, vốn và đất đai nên muốn tạo ra tăng trƣởng kinh tế thì cần phải mở rộng các yếu tố này bằng cách khuyến khích đầu tƣ, thu hút lao động và tăng quy mô đất đai sử dụng trong sản xuất, tuy nhiên sự mở rộng về lƣợng của các yếu tố sẽ luôn có giới hạn bởi tính chất khan hiếm của các nguồn lực, do vậy ngày nay cách thức để tạo ra tăng trƣởng kinh tế là khai thác và sử dụng hiệu quả vốn, đất đai và lao động thông qua các biện pháp (đổi mới công nghệ và giáo dục, đào tạo nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực) nhằm tăng năng suất của các yếu tố này. Các nhà kinh tế đều đồng ý rằng việc cải tiến công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh chính là giải pháp để làm cho các yếu tố vốn, đất đai, lao động trở nên có năng suất cao hơn. Gắn bó chặt chẽ và không thể tách rời với công nghệ là giáo dục, đào tạo, vì nếu có công nghệ tốt hơn nhƣng ngƣời lao động không biết cách vận hành công nghệ thì công nghệ cũng không có ích cho tăng trƣởng. Hơn nữa, giáo dục và đào tạo còn tạo ra tri thức khoa học, trang bị các kỹ năng cho ngƣời lao động, mà từ sự tích luỹ tri thức và kỹ năng đó sẽ lại giúp thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ để ứng dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đa dạng. Nhƣ vậy, động cơ của tăng trƣởng kinh tế bền vững là giáo dục và đổi mới công nghệ, mà các động cơ này đều đƣợc thúc đẩy bởi thể chế kinh tế dung hợp.
Tại sao thể chế kinh tế dung hợp lại có khả năng thúc đẩy giáo dục và đổi mới công nghệ? Acemoglu và Robinson đã giải thích là do thể chế kinh tế dung hợp đã tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả thành viên của xã hội, điều mà các thể chế kinh tế
1 Xem Acemoglu và Robinson (2012), tr. 201
chiếm đoạt không thể tạo ra. Các thể chế kinh tế chiếm đoạt luôn tạo ra cơ chế để một bộ phận thiểu số trong xã hội là giới quyền thế có thể tƣớc đoạt của cải và thu nhập của bộ phận xã hội còn lại, điều đó sẽ triệt tiêu mong muốn gia tăng thu nhập của những ngƣời bị tƣớc đoạt thu nhập và của cải, vì thế họ không có nhu cầu đầu tƣ, không có nhu cầu áp dụng công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, dần dần nền kinh tế sẽ không còn tăng trƣởng. Trong khi đó, thể chế kinh tế dung hợp tạo ra và đảm bảo sự bình đẳng cho các thành viên xã hội, không có rào cản gia nhập thị trƣờng, quyền sở hữu tài sản đƣợc đảm bảo nên thể chế này đã tạo ra động cơ khuyến khích các thành viên xã hội đầu tƣ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ đầu tƣ vào sản xuất, đầu tƣ vào nhân lực, do vậy đã thúc đẩy giáo dục và đổi mới công nghệ. Điều này hàm ý rằng chỉ có thể tạo ra tăng trƣởng kinh tế bền vững trong một thể chế kinh tế dung hợp có hệ thống pháp luật ổn định để đảm bảo sự bình đẳng cho tất cả chủ thể.
Nhƣ lý thuyết thể chế dung hợp đã khẳng định rằng thể chế kinh tế dung hợp đƣợc sinh ra và đƣợc nâng đỡ bởi thể chế chính trị dung hợp, và nó không thể tồn tại lâu dài trong thể chế chính trị chiếm đoạt, do vậy muốn tạo ra tăng trƣởng kinh tế bền vững thì cần phải bắt đầu từ việc xây dựng thể chế chính trị dung hợp, để từ đó nảy sinh các yếu tố của thể chế kinh tế dung hợp. Mà việc xây dựng thể chế chính trị và kinh tế dung hợp là điều có thể thực hiện bởi các thể chế này không phải yếu tố ngẫu nhiên hay tất yếu, đó hoàn toàn là sự lựa chọn của xã hội. Dựa vào lý thuyết thể chế dung hợp có thể chỉ ra những điều cần phải thực hiện để xây dựng thể chế chính trị và kinh tế dung hợp nhƣ sau:
Một là cần xây dựng một nhà nƣớc có sức mạnh và đủ tập trung để có năng lực cƣỡng chế để áp đặt trật tự, tạo ra sự an toàn cho xã hội, nếu không đạt đƣợc sự tập trung chính trị nhƣ vậy thì xã hội sẽ nhanh chóng rơi vào hỗn loạn, bất ổn, tình trạng đó cản trở việc áp dụng pháp luật thống nhất, cản trở khả năng tiếp cận các nguồn lực xã hội và các dịch vụ công bình đẳng;
Hai là nhà nƣớc phải tạo ra cơ chế chính trị đa nguyên, để quyền lực phải đƣợc phân phối rộng rãi trong xã hội, cho phép các nhóm, các giới khác nhau đƣợc tham gia vào quá trình tạo lập các chính sách, pháp luật áp dụng trong đời sống xã hội, đồng thời đảm bảo quyền tham gia của các nhóm là ngang nhau. Nói cách khác, quyền lực nhà nƣớc cần phải đƣợc hạn chế để sự tập trung chính trị của nhà nƣớc không biến thành sự độc tài, nhà nƣớc cần phải tôn trọng, tiếp nhận và cân nhắc tích hợp các ý kiến, quan điểm của các nhóm dân chúng khác nhau trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật. Điều này giúp thúc đẩy và đảm bảo quyền lợi bình đẳng của các chủ thể, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh nhóm thiểu số quyền thế có khả năng tƣớc đoạt tài sản và quyền lợi chính đáng của các nhóm dân chúng khác, thúc đẩy thị trƣờng dung hợp;
Ba là cần phải xây dựng hệ thống pháp luật đảm bảo quyền sở hữu tài sản của cá nhân, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo các quyền tự do trong đó có tự do hợp đồng, đảm bảo bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực xã hội và khả năng gia nhập thị trƣờng… Một hệ thống pháp luật tạo ra sân chơi bình đẳng cho các chủ thể là nền tảng để xây dựng thị trƣờng tự do và dung hợp;
Bốn là cần tăng cƣờng năng lực giám sát, thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc, đảm bảo khả năng cƣỡng chế thực hiện hợp đồng giữa các bên, bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đã đƣợc pháp luật quy định. Nếu nhà nƣớc và các cơ quan nhà nƣớc không có năng lực thực thi pháp luật thì hệ thống pháp luật là cơ sở của thể chế kinh tế dung hợp không có giá trị, thể chể kinh tế dung hợp cũng không thể tồn tại;
Năm là nhà nƣớc cần phải thực hiện tốt vai trò cung cấp các dịch vụ công nhƣ xây dựng mạng lƣới giao thông thuận lợi, thông suốt phục vụ nhu cầu vận chuyển; xây dựng cơ sở hạ tầng công để thúc đẩy các hoạt động kinh tế, giám sát và điều tiết nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền hạn và tội phạm xâm hại hoạt động kinh tế; xây dựng và phát triển hệ thống y tế, giáo dục, đào tạo… bởi vì các cơ chế kinh tế sẽ thông thể vận hành trơn tru nếu thiếu các dịch vụ công. Mặc dù, các dịch vụ công này có thể đƣợc cung cấp bởi thị trƣờng và khu vực kinh tế tƣ nhân, nhƣng các dịch vụ công này cần phải đƣợc cung cấp trên quy mô lớn mới có thể phát huy tác dụng, do vậy cần có sự tham gia của nhà nƣớc vào việc cung cấp và phối hợp, điều tiết các nguồn cung cấp dịch vụ công.
- Các quan điểm mâu thuẫn, đối lập với lý thuyết thể chế dung hợp
Mặc dù lý thuyết thể chế dung hợp của Acemoglu và Robinson đã khắc phục đƣợc hạn chế của các giả thuyết khác đối với việc lý giải về các hiện tƣợng thành công hay thất bại của các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhƣng theo nhiều nhà nghiên cứu khác, lý thuyết thể chế dung hợp không phải là cách giải thích duy nhất cho các hiện tƣợng trên, thậm chí các kết quả nghiên cứu đó còn đƣa đến các kết luận mâu thuẫn và loại trừ tính tin cậy của lý thuyết này. Có thể kể ra kết quả nghiên cứu và quan điểm của một số nhà nghiên cứu nhƣ sau:
Trƣớc hết, trong các năm qua đã có nhiều nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm tìm kiếm mối quan hệ giữa chế độ chính trị và kết quả hoạt động kinh tế, nhƣng phần lớn các nghiên cứu định lƣợng về vấn đề này không đƣa ra đƣợc bằng chứng thống kê về việc có mối quan hệ giữa chế độ chính trị và kết quả hoạt động kinh tế. Một nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 65 quốc gia trong giai đoạn từ 1965-1994 để kiểm tra mối quan hệ giữa dân chủ và tăng trƣởng của Tavares và Wacziarg (2001) đã cho thấy mặc dù dân chủ gắn liền với việc hình thành vốn con ngƣời nhƣng nó cũng dẫn đến tỷ lệ đầu tƣ thấp hơn và ảnh hƣởng tổng thể đến tăng trƣởng có tính tiêu cực nhẹ. Tác giả Mushtaq Khan (2007) cũng xác nhận các nƣớc đang phát triển tăng trƣởng nhanh
không có các chỉ số quản trị tốt hơn so với các nƣớc chậm phát triển, điều này cũng hàm ý rằng không có mối liên hệ giữa khả năng quản trị nhà nƣớc với tăng trƣởng kinh tế, tiếng nói và trách nhiệm giải trình không liên quan đến hoạt động kinh tế, nghĩa là dân chủ và đa nguyên không phải là yếu tố quan trọng để tạo ra tăng trƣởng kinh tế.
Thứ hai là các nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả giữa thể chế chính trị và thể chế kinh tế. Theo nghiên cứu của Bockstette, Chanda và Putterman (2002), lịch sử lâu đời của các nhà nƣớc đóng góp đáng kể vào việc giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trƣởng và năng suất lao động. Các quốc gia có lịch sử lâu đời hơn dƣờng nhƣ thành công hơn trong hoạt động kinh tế so với các quốc gia có lịch sử phát triển ngắn, bởi vì nhà nƣớc ở các quốc gia lâu đời đã tích luỹ đƣợc bề dày kinh nghiệm quản lý công, cung cấp dịch vụ công và đã quen thuộc trong việc xây dựng các thể chế phức tạp, những điều đó tạo ra thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ mục tiêu tăng trƣởng kinh tế. Mặt khác, nghiên cứu này cũng chỉ ra hệ thống chính trị gắn liền với sự giàu có, nhƣng trái ngƣợc với kết luận của Acemoglu và Robinson, nghiên cứu này cho rằng chính sự giàu có mới tạo ra các thể chế chính trị dung hợp, hoặc ít nhất là chỉ khi kinh tế phát triển đến mức tầng lớp trung lƣu đủ lớn thì mới tạo ra đƣợc thể chế chính trị dung hợp.
Thứ ba là nghiên cứu vai trò của các dàn xếp chính trị và quản trị nhà nƣớc ở các thể chế thúc đẩy tăng trƣởng, Khan (2010) đã lập luận rằng các dàn xếp chính trị của giới tinh hoa hoặc các liên minh cầm quyền mà không có sự tham gia của phần lớn các nhóm dân chúng khác trong một số thể chế khá độc quyền cũng đã tạo ra sự ổn định chính trị và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Tác giả Grindle (2004) cũng cho rằng thể chế chính trị và pháp luật “dung hợp” là không thực tế và có thể thất bại, tác giả này đề xuất các nƣớc đang phát triển nên ƣu tiên tập trung vào sự ổn định và năng lực quản trị của nhà nƣớc để thúc đẩy các vấn đề khác của thể chế chính trị và kinh tế.
Thứ tƣ là nghiên cứu về các yếu tố tác động đến khả năng đổi mới và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, Herrmann (2013) đã chỉ ra rằng nếu tiền công trả cho lao động rẻ mạt và lao động dồi dào, sẵn có thì chủ doanh nghiệp không có nhu cầu nâng cao năng suất lao động bằng cách áp dụng công nghệ, do vậy cũng không có nhu cầu cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất. Điều này cũng phù hợp với nhận định của Finley (1965) về việc chế độ nô lệ là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu năng động về công nghệ trong thế giới cổ đại. Hàm ý mà các kết quả nghiên cứu đó chỉ ra là đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ có thể không tất yếu xảy ra trong thể chế kinh tế dung hợp.
Nhìn chung, trong phạm vi giới hạn của từng vấn đề nghiên cứu, các tác giả trên đã đƣa ra những kết luận tin cậy và có giá trị tham khảo để đánh giá mức độ hợp lý của lý thuyết thể chế dung hợp. Đối với hƣớng nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa dân
chủ và tăng trƣởng kinh tế, kết luận của các nghiên cứu này góp phần củng cố thêm nhận định về tính chất cần phải có của thể chế chính trị dung hợp, thể chế đó phải vừa có tính đa nguyên, vừa có tính tập trung. Nếu chỉ thiết lập dân chủ, đa nguyên mà không có tính tập trung đủ để kiểm soát và áp đặt trật tự thì chƣa phải là thể chế chính trị dung hợp, điều đó cũng giải thích tại sao có hiện tƣợng các quốc gia đã thiết lập đƣợc thể chế dân chủ nhƣng vẫn thất bại trong hoạt động kinh tế. Những nghiên cứu về tác động tích cực của thể chế có mức độ khá độc tài (sự dàn xếp chính trị của một nhóm tinh hoa) đối với sự ổn định chính trị và tăng trƣởng kinh tế cũng phù hợp với luận điểm của lý thuyết thể chế dung hợp về việc thể chế chiếm đoạt cũng có thể tạo ra tăng trƣởng kinh tế, tuy nhiên sự tăng trƣởng đó không bền vững, đồng thời lý thuyết cũng đề cập đến trƣờng hợp thể chế kinh tế dung hợp tồn tại trong thể chế chính trị chiếm đoạt, nếu các điều kiện xã hội đủ thích hợp thì nó sẽ biến đổi thể chế chính trị thành dung hợp, còn ngƣợc lại nó sẽ bị biến đối thành thể chế kinh tế chiếm đoạt. Đối với nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, các tác giả khác cho rằng kinh tế phát triển hơn sẽ khiến thể chế chính trị dân chủ hơn, nhƣng trong nghiên cứu về thể chế dung hợp, Acemoglu và Robinson đã cho rằng kết luận này không chính xác bằng việc chỉ ra trƣờng hợp của Trung Quốc (mặc dù đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới nhƣng tính chất dân chủ không đƣợc cải thiện mà trái lại có mức độ tập trung chính trị có xu hƣớng gia tăng đến mức độc tài). Do vậy, ở khía cạnh này lý thuyết thể chế dung hợp có tính hợp lý hơn. Cuối cùng là lƣu ý từ các nghiên cứu về mối liên hệ giữa khả năng đổi mới và ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh tế với tình trạng nguồn nhân lực cho thấy ở các quốc gia đang phát triển, có nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ thì thể chế dung hợp không hẳn sẽ đem đến sự đổi mới công nghệ, và do vậy, điều này cũng phù hợp với đề xuất của Grindle (2004) rằng với các nƣớc đang phát triển thì chỉ cần tập trung vào sự ổn định và năng lực quản trị là đủ tạo ra tăng trƣởng kinh tế. Nhƣng cũng phải xem xét cẩn trọng trƣớc khi quyết định chọn làm những điều dễ dàng hơn vì các quốc gia và dân chúng không chỉ cần tăng trƣởng kinh tế là đủ, họ còn cần đƣợc đảm bảo cả những quyền và tự do khác mà tăng trƣởng kinh tế không phải là chìa khoá vạn năng để đáp ứng tất cả các nhu cầu đó.
Tóm lại, các luận điểm của lý thuyết thể chế dung hợp vẫn có tính hợp lý và đủ tin cậy để xem xét và cân nhắc về việc lựa chọn ứng dụng lý thuyết này thiết kế giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
- Kiến nghị nhằm kiện toàn Nhà nước và pháp luật tại Việt Nam hiện nay trên cơ sở ứng dụng lý thuyết thể chế dung hợp
Dễ dàng nhận thấy thể chế chính trị dung hợp trong lý thuyết của Acemoglu và Robinson không mâu thuẫn với mục tiêu xây dựng thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay, đồng thời kết quả mà thể chế kinh tế dung hợp tạo ra là tăng trƣởng kinh tế cũng
là mục tiêu mà Việt Nam hƣớng tới, do đó việc xem xét ứng dụng lý thuyết thể chế dung hợp trong quá trình hoàn thiện Nhà nƣớc và pháp luật tại Việt Nam là điều đáng thực hiện. Từ các nội dung của lý thuyết thể chế dung hợp và các vấn đề liên quan đến thể chế dung hợp, phần này của bài viết sẽ trình bày một số đề xuất kiện toàn Nhà nƣớc và pháp luật tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các đề xuất này cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất là khi thực hiện kiện toàn Nhà nƣớc, cần tiếp tục thực hiện sự tập trung chính trị thông qua việc duy trì vai trò lãnh đạo duy nhất của một chính đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nƣớc, nhƣng đồng thời Đảng và Nhà nƣớc cần phải phát huy dân chủ, xây dựng cơ chế đa nguyên chính trị, đảm bảo và khuyến khích sự tham gia của dân chúng vào việc xây dựng các chính sách, pháp luật. Đặc trƣng của thể chế chính trị dung hợp theo lý thuyết thể chế dung hợp mở ra khả năng có thể xây dựng thể chế chính trị đa nguyên nhƣng do một đảng lãnh đạo, nói cách khác cơ chế một đảng lãnh đạo không triệt tiêu khả năng đa nguyên của xã hội, vấn đề là đảng cầm quyền có sẵn sàng đón nhận và chấp nhận các ý kiến khác biệt với chủ trƣơng của đảng mình hay không. Để xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị đa nguyên dƣới sự lãnh đạo của một chính đảng thì cần phải thực hiện những nội dung sau:
- Cần đảm bảo tự do ngôn luận, tự do biểu đạt chính kiến, cũng nhƣ quyền lập hội của công dân; đồng thời Đảng và Nhà nƣớc cần thay đổi thái độ đối với các ý kiến của các chủ thể trong xã hội, Đảng và Nhà nƣớc cần tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt trong quan điểm của nhà nƣớc và các chủ thể khác, phải tiếp thu và cân nhắc, tính đến các ý kiến đó trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật;
- Cần phải đảm bảo khả năng/cơ hội tiếp cận các thông tin liên quan đến xây dựng và ban hành các chính sách, pháp luật một cách công bằng cho tất cả mọi thành viên trong xã hội, điều này cũng để đảm bảo quyền lực đƣợc phân phối rộng rãi trong xã hội;
- Cần đảm bảo thực hiện trách nhiệm giải trình đối với xã hội của Nhà nƣớc, các cơ quan nhà nƣớc và các bộ, công chức về các công việc đã thực hiện; bên cạnh đó cần hoàn thiện cơ chế áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ phụ trách lĩnh vực xảy ra sai phạm nghiêm trọng. Những điều này rất có ý nghĩa đối với việc ngăn chặn sự tha hoá, lạm dụng quyền lực của cán bộ, công chức, ngăn chặn nguy cơ xuất hiện các nhóm quyền thế, nhóm lợi ích có ƣu thế và đƣợc hƣởng lợi trên sự mất mát của các nhóm dân chúng khác;
- Cần nâng cao năng lực cƣỡng chế thực thi pháp luật của các cơ quan hành pháp, cơ quan tƣ pháp trong bộ máy nhà nƣớc hiện nay, nhằm ngăn chặn và phòng ngừa hiệu quả đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Điều này cũng góp phần đảm bảo tính chất tập trung chính trị của Nhà nƣớc đủ để có khả năng thiết lập trật tự công cộng, từ đó cho phép các nhóm chính kiến khác nhau chế ƣớc lẫn nhau mà không dẫn đến tình trạng hỗn loạn.
Thứ hai là việc hoàn thiện pháp luật cần phải theo hƣớng khuyến khích đầu tƣ và thiết lập sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia hoạt động kinh tế, cụ thể cần phải tập trung hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật nhƣ sau:
- Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp, quy định về cạnh tranh nhằm loại bỏ các rào cản gia nhập thị trƣờng. Việc gia nhập thị trƣờng dễ dàng, thuận lợi hơn sẽ thúc đẩy các nhà đầu tƣ thực hiện việc đầu tƣ vốn vào hoạt động kinh tế. Các quy định pháp luật về cạnh tranh phải bảo vệ tự do cạnh tranh, chống các hiện tƣợng độc quyền, điều này sẽ thúc đẩy sự năng động của các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động, tạo ra khả năng tự do chuyển đổi hoạt động sang lĩnh vực mới, hiệu quả hơn lĩnh vực cũ, thay đổi cách thức hoạt động có hiệu suất cao hơn, từ đó thúc đẩy họ tìm kiếm các cơ hội đầu tƣ. Thông qua việc đảm bảo các quyền tự do gia nhập và dịch chuyển trong nền kinh tế, hoạt động của nền kinh tế sẽ trở nên năng động hơn, giá trị gia tăng đƣợc làm ra lớn hơn, mặt khác điều này cũng giúp xã hội khai thác tối đa năng lực của các thành viên trong xã hội;
- Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nƣớc, trong đó có quy định pháp luật về đất đai. Các quy định về quản lý đất đai và các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nƣớc (vốn thuộc sở hữu nhà nƣớc tại các doanh nghiệp) hiện nay chƣa đƣợc hợp lý, nhiều quy định pháp luật về quản lý, giao quyền sử dụng các tài sản này đang tạo ra cơ hội cho số ít ngƣời có thể tiếp cận, trong khi phần đông dân chúng không có cơ hội tiếp cận các nguồn lực vốn dĩ là thuộc sở hữu chung này. Vì tồn tại sự bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận đất đai nên thiểu số những ngƣời có thể tiếp cận nguồn lực này đang đƣợc hƣởng những món lợi lớn từ việc kinh doanh bất động sản, điều này không khác gì một sự chiếm đoạt tài sản của phần còn lại của xã hội. Và bởi khả năng thu đƣợc lợi nhuận lớn một cách dễ dàng trong việc đầu tƣ vào bất động sản nên các nhà đầu tƣ ít chú ý đến việc đầu tƣ vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác vốn đem lại tăng trƣởng thực sự và bền vững hơn lĩnh vực bất động sản. Nhƣ vậy, việc hoàn thiện pháp luật đất đai và pháp luật quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nƣớc nhằm ngăn chặn tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận các tài sản này sẽ đảm bảo quyền lợi công bằng hơn cho tất cả thành viên của xã hội, mặt khác sẽ góp phần điều tiết đầu tƣ của xã hội vào những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo ra giá trị thực sự cho xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế;
- Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động – là một trong những yếu tố thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Các quy định về phát triển nguồn nhân lực là những quy định liên quan đến giáo dục, đào tạo, các quy định này cần phải đƣợc hoàn thiện để tạo ra sự bình đẳng trong giáo dục (bao gồm quyền bình đẳng trong tiếp cận cơ hội giáo dục, bình đẳng trong cơ hội cung cấp dịch vụ về giáo dục), điều này cùng với việc thực hiện chức
năng tổ chức hệ thống giáo dục của các cơ quan nhà nƣớc sẽ thúc đẩy sự phát triển tri thức khoa học và trang bị kỹ năng cho ngƣời lao động, kết quả là sẽ góp phần tạo ra sự đổi mới công nghệ và vận hành công nghệ hiệu quả. Bên cạnh việc hình thành nguồn nhân lực có chất lƣợng cao, còn cần phải có chính sách sử dụng nguồn nhân lực này hiệu quả, nếu không việc phát triển nguồn nhân lực sẽ không có ý nghĩa. Pháp luật về sử dụng nguồn nhân lực cần phải đƣợc hoàn thiện theo hƣớng đảm bảo quyền tự do lựa chọn nơi làm việc, loại bỏ các rào cản tiếp cận công việc, từ đó có thể khai thác hiệu quả năng lực của ngƣời lao động. Ngoài ra, chính sách tiền lƣơng cho ngƣời lao động cũng cần thay đổi, không nên tiếp tục duy trì chính sách tiền lƣơng thấp và coi đó nhƣ là lợi thế để thu hút đầu tƣ bởi tiền lƣơng thấp và lực lƣợng lao động đông đảo sẽ triệt tiêu nhu cầu áp dụng công nghệ vào sản xuất. Muốn thúc đẩy đổi mới công nghệ và tăng cƣờng ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh tế thì chính sách tiền lƣơng cần phải thay đổi.
- Kết luận
Lý thuyết thể chế dung hợp đƣợc xây dựng nhằm giải thích cho các hiện tƣợng thành công hoặc thất bại về kinh tế của các quốc gia, nhƣng nó cũng đã cung cấp giải pháp để các quốc gia có thể đạt đƣợc sự thành công trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Lý thuyết này đã khẳng định các thể chế chính trị và kinh tế là sự lựa chọn của xã hội, nếu một xã hội mong muốn tạo lập sự tăng trƣởng kinh tế bền vững, để trở nên thịnh vƣợng thì xã hội đó nên lựa chọn xây dựng thể chế chính trị dung hợp để từ đó hun đúc lên thể chế kinh tế dung hợp – là nguồn gốc của tăng trƣởng kinh tế bền vững. Áp dụng lý thuyết thể chế dung hợp, bài viết đã đƣa ra những kiến nghị để kiện toàn Nhà nƣớc và pháp luật tại Việt Nam nhằm tạo ra các động lực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội trong giai đoạn tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bockstette, Chanda và Putterman (2002), States and Markets: The Advantage of an Early Start, Journal of Economic Growth, vol. 7, issue 4, 347-369.
- Daron Acemoglu, James A. Robinson (2012), Tại sao các quốc gia thất bại,
do Trần Thị Kim Chi và các đồng nghiệp dịch, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Finley (1965), Technical Innovation and Economic Progress in the Ancient World, Economic History Review, vol.18 (1), 29-45.
- Herrmann (2013), Tây Âu trong tiến trình phát triển kinh tế, do Võ Thị Kim Nga dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội.
- Joseph Schumpeter (1942), Capitalism, Socialism and Democracy, Harper & Brothers Publishing house, New York.
- Merilee. S Grindle (2004), Good Enough Governance: Poverty Reduction and Reform in Developing Countries, Governance: An International Journal of Policy, Administration, and Institutions, vol.17 (4), 525-548.
- Mushtaq Khan (2007), Governance and Growth: A Preliminary Report. Research Paper supported by DFID grant. London: SOAS. Available at https://eprints.soas.ac.uk/9958/1/Preliminary_Report.pdf
- Mushtaq Khan (2010), Political Settlements and the governance of growth- enhancing institutions, Available at http://eprints.soas.ac.uk/9968/1/Political_ Settlements_ internet.pdf
- Tavares and Wacziarg (2001), How democracy affects growth, European Economic Review vol. 45, 1341-1378.